Nhiều đoạn khi đọc mình đã cảm thấy xúc động chỉ muốn trào nước mắt. Mong anh em hãy đọc hết và suy nghĩ.
" Con gái yêu của Ba!
Tháng 2-2009: Con gái yêu của Ba tròn 8 tuổi và đã học đến lớp 2. Con
chỉ biết, những ngày này là qua Tết Nguyên đán Kỷ Sửu và mới phải đi học
nhưng con vẫn dậy sớm đến trường và thánh thót khoe với Ba mẹ những
điểm 9-10 sau mỗi ngày tới trường từ sáng đến tối. Xung quanh con lúc
này, chỉ có những bài học; những phút vui cùng bạn bè, cô giáo ở ngôi
trường giữa lòng Hà Nội xanh ngắt cây lá và ngập tràn sắc màu xanh đỏ
của những bé con má đỏ, môi hồng...; xung quanh con là đầy đủ, no ấm và
con chỉ phụng phịu mỗi khi Ba mẹ tắt ti vi trong giờ ăn, không để con
dán mắt vào màn hình chiếu Clip quảng cáo, hay phim dành cho thiếu nhi,
nhan nhản trên truyền hình cáp.
Tháng 2-1979: Ba cũng tròn 8 tuổi và cũng học lớp 2 như con bây giờ. Hồi
ấy, ông nội của con mới phục viên sau hơn 10 năm chiến đấu trong binh
chủng tên lửa của Quân đội nhân dân Việt Nam (1965-1978) và cũng theo
chân những đoàn quân tiến vào giải phóng Sài Gòn trong năm 1975. Ký ức
của Ba về ông nội là chiếc ba lô to đùng đằng sau lưng, trên đó có 1
chiếc khung xe đạp (sau này được lắp thành chiếc xe đạp để ông đi khắp
nơi "buôn" chè, củ ấu... nuôi ba và cô Hương, cô Yến học xong Đại học), 1
con búp bê biết nhắm và mở mắt, 1 chiếc ca bằng đuya ra (còn gọi là
hăng gô) của lính Mỹ (sau đó và bây giờ, bà Nội của con vẫn dùng để múc
nước ở cái bể nước mưa xinh xinh ngay dưới hàng cau trước cửa nhà ở
quê).
Thế nhưng, ký ức mãi không thể quên trong tâm trí của Ba là buổi sáng
18-2-1979 (1 ngày sau khi Trung Quốc cho quân bất ngờ tấn công các tỉnh
biên giới phía Bắc), ông Thành, ông Hòa và mấy ông ở gần nhà (cùng đi bộ
đội, cùng phục viên, vẫn cùng tụ tập đến nhà mình uống nước trà mỗi
tối) đến thì thầm nói chuyện với ông Nội. Câu chuyện của những cựu binh
đó là gì, đến khi lớn rồi ba mới hiểu: Các ông thông báo cho nhau tin
Trung Quốc tấn công Việt Nam và cùng nhắc nhau chuẩn bị quân tư trang,
chuẩn bị lên đường nếu có Tổng động viên. Ba vẫn nhớ: Buổi trưa ngày hôm
đó, ông Nội hì hục chuẩn bị quần áo, tư trang gọn vào chiếc ba lô bộ
đội và gọi bà Nội bế cô Yến (sinh năm 1977) cùng Ba và cô Hương cũng mới
5 tuổi ra và dặn dò công việc ở nhà. Lúc ấy, trí óc non nớt của Ba mới
cảm nhận: Giặc là gì? Là kẻ đã kéo người thân của Ba ra khỏi ngôi nhà và
làm xáo trộn cuộc sống gia đình yên ấm.
Tháng 2 và 3 năm 1979, rút cục ông Nội cũng chỉ lên Huyện đội tập trung,
huấn luyện sau thời gian ngắn và vẫn ở lại cùng gia đình. Mỗi tuần, chỉ
phải trực tự vệ cùng cơ quan. Tuy nhiên, cuộc sống thời chiến thì không
chỉ đơn giản trong việc mỗi tuần, ông phải ở cơ quan 2 đêm, thi thoảng
lại về nhà muộn, mệt nhoài vì đào hầm hào, huấn luyện... mà cuộc sống
thời chiến còn tác động trực tiếp đến Ba và gia đình bé nhỏ của nhà
mình.
Hồi ấy và sau này này nữa, Ba say mê đọc những cuốn truyện tranh kể về
chiến công của những anh bộ đội - dân quân - du kích chiến đấu với giặc
Trung Quốc ở nơi biên giới, những thủ đoạn thâm độc của những kẻ đội mũ
vải, đeo "tiết đỏ" và mặc áo 4 túi chỉ muốn chiếm đất của Tổ quốc mình..
Hồi ấy, Ba cùng các bạn trong lớp cũng phải cùng các anh chị, thầy cô
trong trường cấp 1 đào giao thông hào ngay trong sân trường (Bây giờ,
đoạn giao thông hào ấy đã bị lấp. Nhưng có dịp, Ba đưa con về quê mình,
trèo lên núi Voi gần nhà bà Nội, con vẫn thấy những đoạn giao thông hào
bị cỏ che kín mà Ba và các anh chị, thầy cô đã đào thời đó). Hồi ấy, mọi
nhà đề phải đào hầm, nhà Nội mình cũng đắp 1 chiếc hầm kèo ngay giếng
nước. Lúc mới đào xong, Ba và cô Hương - cô Yến cứ rúc rích chui ra,
chui vào chơi trốn tìm. Cạnh nhà mình, có nhà bà Dung, kinh tế khá giả
nên đào hầm ngầm: Vách trát xi măng, nắp làm bằng bê tông, bậc lên xuống
cũng xây gạch, thế nhưng cứ sau mỗi trận mưa, nước lại tràn vào... lưng
hầm và rắn rết, ễnh ương - chão chàng bơi lằng nhoằng, đẻ trứng đầy
trong đó...
Cứ như vậy đó, Ba lớn lên với những câu chuyện kể ở trường, những trang
truyện tranh đọc "ké" ngoài hiệu sách phố huyện, những câu chuyện - lời
bàn tán của ông Nội cùng những người bạn bên bàn nước vàng ệch màu đèn
dầu và cả những tiếng nói bập bõm, ngang ngang giọng người nước ngoài
nói tiếng Việt Nam chìm trong tiếng sôi sè xè phát ra từ chiếc đài chạy
pin bé tí mà ông vặn nhỏ hết cỡ, ghé tai vào nghe để biết "tình hình
chiến sự"... Tất cả đã dần hình thành trong tâm tưởng Ba về một nỗi ám
ảnh, nguy hiểm và đe dọa thường trực được gọi là Trung Quốc.
Tháng 3-2008: Con tròn 7 tuổi và học lớp 1. Buổi sáng Ba ra xe đón lên
Nội Bài, bay vào Nha Trang để ra công tác quần đảo Trường Sa, con đứng
ngoài đầu ngõ vẫy tay: "Ba về sớm và mua quà cho con nhé!" và lại tất
tưởi ngồi sau xe để mẹ chở đến trường, cùng líu lo hát "Em vui vào
trường Thành Công B, lấp lánh ban mai chim ca. Em vui vào trường Thành
Công B, lá biếc hoa thơm ngọt ngào. Em luôn được thầy cô yêu thương với
trái tim của mẹ hiền. Lấp lánh cho con bay cao, giữa trời xanh chim tung
cánh bay..." với má đỏ môi hồng cùng lớp. Con có biết, những ngày sau
đó, Ba đã cùng hơn 100 người con đất Việt, kề vai nhau trên con tàu HQ
996 của Vùng 4, Hải quân đè sóng biển Đông, xuất phát từ quân cảng Cam
Ranh, Khánh Hòa ra với dải đất Trường Sa thân thương đang ưỡn lưng bảo
vệ vòng cung hình chữ S
Nửa tháng ra với bộ đội, ở với bộ đội, hóa thân thành bộ đội, cảm nhận -
chia sẻ cùng bộ đội và vui - buồn - căm hờn cùng bộ đội, Ba càng thêm
yêu Tổ quốc của mình và đau cùng Tổ quốc của mình. Buổi trưa trước khi
làm lễ tưởng niệm cho gần 100 cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt
Nam đã hy sinh vì lưỡi lê, báng súng, dao găm và đạn AK bắn gần, pháo
hạm của lính Trung Quốc khi làm nhiệm vụ giữ đảo trên vùng biển Cô Lin -
Gạc Ma xanh ngăn ngắt, lặng lẽ sóng, Ba đã bật khóc ngay trên mũi tàu
HQ996. Khóc thật sự và nước mắt thật sự uất ức, chảy tràn trên má, làm
ướt mềm quai mũ cứng gắn quân hiệu sao vàng con ạ!. Con có biết không?
Những người lính đang nằm dưới biển sâu kia còn rất trẻ. Ba đã vào phòng
Truyền thống của E131, Hải Quân và nhìn lại gương mặt họ qua những tấm
ảnh. Họ trẻ trung và trong sáng như thể còn ở tuổi học sinh Trung học.
Ngay cả những người thuyền trưởng chỉ huy mới mang hàm cấp úy cũng còn
trẻ trung, điệu đàng (nhưng đã quyết chiến dùng mọi hỏa lực sẵn có trên
những chiếc tàu chỉ có chở đất, đá, bê tông ra xây đảo để bắn trả mãnh
liệt vào tàu xâm lược và cho tàu phóng thẳng lên bãi cạn để đánh dấu chủ
quyền)...
Vậy mà họ đã nằm xuống vĩnh viễn dưới lòng biển. Họ nằm xuống trong khi
ngăn chặn lính Trung Quốc đổ bộ lên chiếm đảo với trang bị đến tận răng.
Họ nằm xuống bởi họ là lính công binh Hải quân chỉ có quần đùi, mũ mềm
và... tay không ra xây dựng đảo. Họ nằm xuống bởi họ không được "lệnh"
từ 1 nơi bí ẩn, nghiêm mật giữa đô thị đầy ánh sáng và no đủ: "Chỉ được
ngăn chặn bằng biện pháp mềm dẻo, không được kháng cự, đánh trả"... Dĩ
nhiên, da thịt của họ chẳng phải là sắt thép, để chịu đựng những nhát
đâm điên cuồng bằng dao găm, lưỡi lê. Gân cốt họ cũng chẳng phải titan
để chống lại đạn nhọn của đám lính Trung Quốc điên cuồng xiết cò súng AK
để sẵn ở nấc bắn liên thanh... Họ lần lượt nằm xuống, cùng nhau nằm
xuống, như vẫn cùng nhau chia ngọt sẻ bùi trong những tháng ngày quân
ngũ ít ỏi. Không nằm xuống sao được khi phải căng mắt nhìn lũ ăn cướp
thản nhiên, thoải mái giết đồng đội mình và chính bản thân mình?..
Tháng 3-2008 ở Trường Sa, sau khi đã làm lễ truy điệu những cán bộ -
chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam đang nằm dưới vùng biển Gạc Ma - Cô
Lin, Ba và những đồng đội của Ba đã tràn ra hết mũi tàu, 2 bên boong tàu
lặng nhìn xuống biển xanh nhớ thương những người con đất Mẹ và không ai
bảo ai, tất cả đều quay mặt nhìn về tòa nhà cao vài tầng sừng sững của
lính Trung Quốc chiếm đóng trên đảo chìm đã chiếm của ta. Lúc ấy, ánh
mắt của ai cũng rất lạ, từ Trung tướng Trưởng đoàn công tác cho đến cô
Hạ sĩ đoàn văn công Quân khu 4. Ai cũng ráo hoảnh, chong mắt nhìn tàu
địch - công sự của địch chứ không rưng rưng nước mắt khi những bó hương
dành cho liệt sĩ cháy bùng lên, cuộn khói bay vòng tròn như những dấu
hỏi... Lúc ấy, ba càng thấm thía về Tổ quốc trong tim và Ba đã viết
"Viết cho con từ Trường Sa" ngay trong khoang tàu, trong giàn giụa nước
mắt, không hiểu con đã đọc trên Blog của Ba chưa?..
Tháng 3-1988: Lúc ấy Ba đã học lớp 11. Cái buổi chiều đông ngày hôm ấy,
Ba cùng ông Nội đã sững sờ khi nghe cô phát thanh viên Đài Tiếng nói
Việt Nam đọc chậm danh sách những cán bộ - chiến sĩ Hải quân nhân dân
Việt Nam hy sinh và mất tích trong khi bảo vệ chủ quyền Tổ quốc tại vùng
biển Cô Lin - Gạc Ma. Không thể diễn tả cảm xúc lúc ấy, chỉ biết rằng,
đến bây giờ hình như vẫn còn nguyên trong Ba: Uất ức - bức bối như thể
có tảng đá đang đè trên ngực (Cảm giác này càng nhân lên gấp bội và
thành ám ảnh khi Ba ra với Trường Sa). Ngay sáng ngày hôm sau, cái lớp
11B3 của Ba ngày ấy đã không thể học được và hết thảy, những thằng con
trai trong lớp đã làm đơn tình nguyện đi bộ đội, cùng con trai các lớp
khác kéo đến đứng đen đặc, câm lặng trước phòng thầy Hiệu phó cũng đang
đỏ hoe mắt vì có con trai đang đóng quân trên quần đảo Trường Sa.
Con có biết không? Ở gần nhà bà Nội mình có 1 dãy núi, gọi là núi Xuân
Sơn, cạnh núi có 1 đoàn 679 của Quân chủng Hải quân đóng và trong dãy
núi đó có rất nhiều hầm để bộ đội chứa tên lửa đất đối hải. Thi thoảng,
những chiếc xe hàng vài chục bánh lại phun khói chở những ống tên lửa
khổng lồ đi đâu đó. Hồi ấy, Ba và các bạn rất muốn vào bộ đội tên lửa
Hải quân để điều khiển những quả tên lửa bắn nát tàu Trung Quốc.
Tháng 2 năm 2009 này: Tròn 30 năm ngày Trung Quốc cho quân bất ngờ tấn
công dọc tuyến biên giới nước ta; gần tròn 21 năm Trung Quốc cho quân
đánh chiếm một số đảo chìm, bãi cạn của Tổ quốc ta trên quần đảo Trường
Sa.
Ngày Tình yêu 14-2,ngày Thứ 7. Ba không đưa con đi mua quà tặng cho mẹ
Hằng mà ngồi từ trưa đến tối để vào mạng, đọc những dòng của các ông -
các bác cựu binh viết về sự kiện tháng 2-1979 và tháng 3-1988. Đọc xong
để viết những dòng này cho con và mẹ Hằng cùng những bạn bè của Ba đang
ấm cúng bên vợ - người yêu - người tình bên nến hồng, rượu vang. Viết để
nhớ một thời bao người đã đổ máu, góp xương cho mỗi tấc đất biên cương
nơi xa hút. Sau này, con có đi Lạng Sơn sắm đồ Tàu, lên Trùng Khánh -
Cao Bằng ăn hạt dẻ, ngắm thác Bản Giốc, lên Hà Giang tắm nước nóng Thanh
Thủy, lên Lào Cai nghỉ ở Sa Pa, lên Lai Châu tắm thuốc người Dao, ngắm
ruộng bậc thang, xem hoa Ban đầu xuân, ra Trường Sa câu cá chuồn đêm
trăng... Con hãy nhẹ chân và vào nghĩa trang liệt sĩ thắp hương cho các
ông, các bác, các chú đã nằm xuống trong những năm tháng chống giặc xâm
lược Trung Quốc trên những vùng đất yên thương của TỔ QUỐC mình con
nhé!...
Hà Nội, 21 giờ ngày 14-2-2009
Nguồn: Internet